Nhưng cho dù đã giành được tất cả những thứ này rồi, thì chẳng bao lâu họ lại thấy cái lỗ hổng đấy vẫn còn đó, rằng nó sâu thẳm không thấy đáy. Tại sao hầu hết các tôn giáo đều lên án hoặc chối bỏ xác thân? Dường như các hành giả tâm linh luôn luôn xem thân xác là vật chướng ngại hay thậm chí là căn nguyên của tội lỗi. Chỉ quan sát chúng thôi cũng là một cách thiền định.
Bằng cách tập trung vào cái thoáng chốc này và cố không dùng tâm trí đặt tên cho nó, bệnh tật rút lại chỉ là một hay vài nhân tố như đau đớn, suy nhược, hay bất lực về mặt thể xác. Cùng lúc đó, hãy là cái tri kiến ấy, tức là hãy nhận biết sự hiện trú tỉnh thức của bạn và cảm nhận sức mạnh của nó. Bạn chẳng có lợi gì trong cả hai trường hợp đó.
Nói khác đi, hãy cảm nhận cơ thể bạn từ bên trong. Lúc ấy thình lình xuất hiện sự tĩnh lặng nội tại. Bạn sẽ bị chiếm lĩnh, bị chế ngự bởi một phản ứng, mà rốt cuộc luôn luôn là một dạng sợ hãi nào đó, rồi bị cuốn hút vào trạng thái mê muội sâu sắc.
Vô số người ở phương Đông và phương Tây trải suốt nhiều thế kỷ đã nỗ lực tìm kiếm Thượng đế, sự cứu rỗi, hay giác ngộ thông qua sự chối bỏ thân xác. Vì vậy, hãy dùng cơ thể nội tại của bạn làm cánh cổng, qua đó bạn tiến sâu vào cõi Bất thị hiện, và giữ cho cánh cổng đó luôn rộng mở để cho bạn thường xuyên kết nối với Cội Nguồn. Mối quan hệ – và con người – lúc ấy đối với bạn chỉ có tầm quan trọng thứ yếu hay chẳng quan trọng gì cả.
Về mặt tâm linh, cho đến khi tiến đến mức đó bạn vẫn còn vô minh. Trong trường hợp đầu, nó thị hiện dưới dạng sự bất an và thường xuyên cảm thấy mình không xứng đáng hay chưa đủ tốt. Bạn sử dụng nó phần lớn nhằm phục vụ các mục tiêu thực dụng, nhưng bạn thoát khỏi tình trạng cưỡng chế đối thoạt trong đầu, và được tĩnh lặng nội tại.
Ở bình diện sâu thẳm này, lòng trắc ẩn có khả năng hàn gắn theo ý nghĩa rộng rãi nhất. Đặt ra kế hoạch để gắng sức thành đạt không có gì sai trái. Đừng tìm kiếm trạng thái nào khác ngoài tình trạng hiện nay của bạn; nếu không, bạn sẽ tạo ra xung đột nội tại và phản kháng một cách vô minh.
Nếu một phản ứng là cần thiết cho tình huống ấy, thì nó sẽ xuất phát từ bình diện sâu thẳm này. Trong chừng mực nào đó, lúc ấy bạn không cần đến thế giới này nữa. Nếu bạn cố chấp phản kháng sự thật đó, tức là bạn từ chối xuôi theo dòng đời, và bạn sẽ gánh chịu đau khổ.
Vì vậy, đối với người đã giác ngộ, bên ngoài họ có thể có cảm giác thiếu thốn hay bất toàn khi nhu cầu nam nữ không được đáp ứng, nhưng đồng thời bên trong họ vẫn cảm thấy hoàn toàn trọn vẹn, mãn túc, thanh thản, và an bình. Khi hành động của bạn xuất phát từ sự tỉnh thức ở khoảnh khắc hiện tiền, cho dù là bất cứ việc gì đi nữa – thậm chí một hành động đơn giản nhất – thì hành động ấy cũng thấm đẫm tính nhân bản, lòng vị tha, và tình yêu cao thượng. Tuy vậy, tôi xin phép tiếp tục nói qua về sự tiến hóa của ý thức trong cái thế giới này.
Hoạt động không ngưng nghỉ của tâm trí cầm tù bạn trong thế giới hình tướng và trở thành tấm bình phong mờ đục ngăn cản không cho bạn nhận biết cõi Bất thị hiện, nhận biết cái tinh hoa Thượng đế vô tướng và phi thời gian trong chính bạn, trong mọi sự việc, và trong mọi tạo vật. Trong trạng thái vâng phục, nhân cách hữu tướng của bạn suy yếu đi và trở nên hơi “trong suốt”, có thể nói như vậy, cho nên cõi Bất thị hiện có thể chiếu sáng xuyên qua bạn. Tất cả các thứ đó đều là vô minh.
Loài người khi bị chói chặt trong vòng đau khổ hàng vạn năm nay, kể từ khi họ bị thất sủng, bước vào lãnh địa của thời gian và tâm trí, và không còn biết đến Bản thể hiện tiền. Nhưng sẽ đến lúc mà cách cư sử của người bạn tình không còn đáp ứng được các đòi hỏi của bạn, hay đúng hơn cho tự ngã hư ngụy của bạn. Tôi thấy những điều ông nói là sự thật, nhưng tôi vẫn cho rằng chúng ta phải đặt ra mục đích cho chuyến du hành của đời mình; nếu không, chúng ta cứ mãi trôi dạt vô định, và mục đích có nghĩa là tương lai, phải vậy không? Làm sao mới dung hòa được nó với việc sống trong hiện tại đây?