Họ cố gắng tìm hiểu ý nghĩa ngôn từ, cố gỡ mớ bòng bong của câu cú để rồi nhanh chóng từ bỏ việc đọc và kết luận rằng thơ hiện đại quá khó đọc, như họ đã lường trước. Đi nằm với tư thế thoải mái, đèn không đủ sáng khiến mắt mỏi, bạn chọn một cuốn sách rất khó hoặc rất nhàm chán - một cuốn sách mà bạn không cần quan tâm là có nên đọc hay không - chỉ mấy phút sau, bạn sẽ ngủ ngay. Hầu hết các cuốn sách viết về các sự kiện thời sự đều nhằm mục đích chứng minh.
Chiến tranh chỉ làm nền cho cả hai câu chuyện, làm bối cảnh cho phần lớn cuộc đời nhân vật, còn bản thân câu chuyện mới là cái thu hút sự chú ý của chúng ta. Xác định chuyện gì đó có thât sự xảy ra trong lịch sử hay không là việc rất khó. Sách tham khảo cũng phải được sử dụng một cách nghệ thuật.
Ý kiến này hiếm khi được nêu rõ trong các cuộc hội thoại, cho dù Socrates đã đề cập đến nó trong tác phẩm Apology (Lời tạ tội) khi ông khẳng định rằng cuộc sống không có kiểm soát thì không đáng sống. Hầu hết các bài báo về khoa học thường dễ đọc hơn các cuốn sách khoa học thông dụng. Có thể họ thích thật nhưng họ không thể nói cho người khác họ thích như thế nào hoặc điều gì của cuốn sách làm họ thích.
Ít nhất, nó cũng nói cho độc giả biết rằng nhà toán học chỉ là một người bình thường chứ không phải là một nhà ảo thuật. Khía cạnh ngữ pháp là phần xử lý từ ngữ, khía cạnh logic là bước xác định ý nghĩa hay nói một cách chính xác là xác định các thuật ngữ. Nghệ thuật đọc cũng tương tự - là kỹ năng tiếp nhận các loại thông tin càng hiệu quả càng tốt.
Lúc này, kỹ năng ngữ pháp và logic cũng đóng vai trò giúp chúng ta hiểu rõ những gì đang được trình bày, và chuẩn bị để đưa ra lời phê bình, nhận xét. Ví dụ, cuốn sách lịch sử về cuộc nội chiến ở Mỹ không phải là sách lịch sử thế giới ở thế kỷ XIX. Tương tự, Newton đặt tên tác phẩm vĩ đại của mình là Mathematical Principles of Natural Philosophy (Những nguyên lý toán học của triết học tự nhiên), mặc dù với chúng ta cuốn sách đó là một trong những tác phẩm khoa học kinh điển.
Tác giả phải lý luận làm sao để có thể tác động đến cả con tim và khối óc của người đọc. Trong khi các chương của một cuốn tiểu thuyết, các hồi của một vở kịch hoặc các khổ thơ thường sẽ trở nên vô nghĩa khi bị tách khỏi một tác phẩm nguyên vẹn. Dường như không thể giải thích được một thực tế lá có quá nhiều người bận rộn lại chết rất nhanh sau khi họ về hưu.
Giữa chúng không có sự tương ứng 1-1. Đó là sự khác biệt giữa biết cái gì và biết cách nào. Việc phân biệt các nhận định ẩn chứa trong một câu dài và phức tạp rất quan trọng.
Ban đầu, những lý do đó thường mang dấu ấn (ưu tiên và định kiến) của bản thân bạn hơn là của cuốn sách. Một trí óc không được kích thích bằng những câu hỏi hay tồn tại nhưng chúng ta phải nhìn theo cách nhìn của trẻ em, thắc mắc như cách trẻ em thường làm và hỏi như chúng hỏi. Các câu trả lời muôn hình muôn vẻ và liên quan chặt chẽ đến nhau tạo thành cuộc tranh luận chung về sự tiến bộ.
Việc áp dụng các quy tắc phân tích cấu trúc sách cũng khá hữu ích để hiểu các từ chuyên môn. Ngôn ngữ thể hiện các thuật ngữ, định lý và phương trình toán học thường không hàm chứa ý nghĩa về cảm xúc. Những gì bạn hiểu được (dù chỉ là một nửa hoặc ít hơn) sau khi đã đọc hết cuốn sách sẽ giúp bạn khi bạn cố gắng quay trở lại đọc những đoạn đã bị bỏ qua lần đầu.
Khi đó, bạn đã đạt được sự thống nhất về thuật ngữ với tác giả. Cách đọc như thế được những người Do Thái chính thống áp dụng khi đọc Kinh Cựu Ước; người Cơ đốc giáo áp dụng đọc Tân Cựu Ước; người Hồi giáo đọc Kinh Koran; người theo chủ nghĩa Marxists đọc các tác phẩm của Marx, Lenin và tuỳ thuộc vào tình hình chính trị họ đọc các tác phẩm của Stalin; các nhà tâm lý học theo trường phái Freud đọc các tác phẩm của Freud; các sĩ quan quân đội Hoa Kỳ đọc sách huấn luyện bộ binh… Chúng tôi chỉ ra sự tương phản giữa đọc tích cực và đọc thụ động nhằm hướng mọi người chú ý đến một thực tế là việc đọc ít nhiều đều phải tích cực và càng đọc tích cực, càng có hiệu quả.