Vâng phục không chuyển hóa cái đang là, ít ra không chuyển hóa trực tiếp nó. Nếu bạn đang có một mối quan hệ, rất nhiều thách thức xuất hiện thông qua người bạn đời. Sự thiếu vắng tình yêu trong mối quan hệ, mà phụ nữ vốn thường khéo cảm nhận hơn sơ với nam giới, sẽ kích hoạt cái quầng chứa nhóm đau khổ của nữ giới, và thông qua nó cô ta sẽ ra sức công kích người bạn đời – bằng cách trách móc, chỉ trích, cố tình sai phạm, và vân vân.
Ngược lại, nếu cần phải hành động, thì bạn sẽ không còn phản ứng từ tâm trí có điều kiện của mình nữa, mà phản ứng cảu bạn đối với hoàn cảnh sẽ xuất phát từ sự hiện trú hữu thức. Chỉ cần ý thức mạnh mẽ về khoảnh khắc hiện tại. Thân xác và sự chết là hai phương diện của cùng một ảo tưởng.
Cảm nhận chất phát quang ấy tràn đầy cơ thể bạn và làm cho nó cũng phát sáng lên. Một khi bạn xây dựng một lý thuyết, thật không khó cho lắm để tìm thấy chứng cứ nhằm bênh vực nó, ít ra cho đến khi xuất hiện một lý thuyết khác. Mặc dù tất cả giáo lý tâm linh đều xuất phát từ Nguồn cội chung ấy, một khi chúng được diễn đạt thành lời và được ghi chép lại thì hiển nhiên chúng chẳng qua chỉ là các cụm tập hợp từ ngữ – và mỗi từ ngữ cũng chỉ là một tấm biển chỉ đường, như chúng ta đã thảo luận trước đây.
Nếu thấy có lợi, bạn hãy dùng phép quán tưởng “ánh sáng” tôi đã miêu tả ở chương trước. Hãy tri cảm các khoảng hở ấy. Nhưng lúc ấy hãy chắc rằng bạn buông bỏ nó hoàn toàn.
Hãy tập trung chú ý theo hơi thở chuyển động ra vào cơ thể bạn. Sự xung đột này ngưng dứt khi không còn bất cứ va chạm vào giữa các đòi hỏi cùng kỳ vọng của tâm trí bạn với cái đang là. Ý thức chỉ biết bản thân nó là sắc tướng bên ngoài, và do đó nó sống trong nỗi sợ hãi bị hủy hoại sắc tướng bật chất hay tâm lý của nó.
Sự kiện này không thể tồn tại nếu không có sự kiện kia. Khi bạn đã triệt bỏ hai nhân tố phá hoại cho mối quan hệ – tức là khi mà cái quầng đau khổ đã được chuyển hóa và bạn không còn bị đồng hóa với tâm trí cùng các định kiến nữa – và nếu đối phương cũng hành động tương tự, bạn sẽ trải nghiệm hạnh phúc từ sự triển nở mối quan hệ. Cho nên, đừng tin rằng ánh sáng ở bên ngoài bạn hay nó chỉ có thể đến qua một hình tướng đặc biệt nào đó.
Tôi thích lối định nghĩa đơn giản của Đức Phật, Ngài cho rằng giác ngộ là “kết thúc khổ đau”. Chẳng phải cái chết của ảo tưởng này là sự giải thoát kỳ diệu sao? Sai lầm là chết, các cuộc hiến tranh nổ ra cũng như vô vàn mối quan hệ bị đổ vỡ đều do nỗi sợ hãi gây ra.
Phải chăng người ta có thể khám phá lại các giáo lý đã thất truyền về tầm quan trọng của thân xác hay xây dựng lại chúng từ các mảnh vụn hiện hữu? Chính tấm màn ý tưởng này tạo ra ảo tưởng về sự cách biệt, ảo tưởng rằng có bạn và một “tha nhân” hoàn toàn cách biệt với bạn. Sự đồng hóa với tâm trí cung cấp cho nó thêm nhiều năng lương; còn quan sát tâm trí rút bớt năng lượng của nó.
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt. Cuộc sống trở nên hữu ích và lợi lạc. Tâm trí không sao hiểu được điều này.
Vậy là không ai chịu trách nhiệm đối với việc họ làm sao? Tôi không thích ý nghĩ đó. Bên dưới hình tướng bề ngoài của mình, bạn đang kết nối vối một thứ gì đó thật bao la, thật vô lượng và vô cùng linh thiêng, đến mức không thể nghĩ bàn được – mà giờ đây tôi đang nói đến. Nếu cả hai người cùng nhất trí rằng mối quan hệ nhằm giúp bạn rèn luyện tâm linh, thì sự việc càng tốt hơn.